Theo số liệu từ Niên giám Thống kê Quốc gia năm 2023, tổng số nữ giáo viên phổ thông thuộc các dân tộc thiểu số trực tiếp giảng dạy trên cả nước đạt 84.280 người tại thời điểm 30/9/2023. Con số này được phân bổ qua các cấp học gồm tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông, thể hiện sự đa dạng trong cơ cấu nguồn nhân lực giáo dục tại các vùng miền khác nhau của Việt Nam.
Số liệu cho thấy ở quy mô toàn quốc, nữ giáo viên dân tộc thiểu số dạy tiểu học chiếm 50.155 người, trung học cơ sở 24.664 người và trung học phổ thông 9.461 người. Điều này cho thấy các cơ sở giáo dục trên cả nước đang cố gắng đảm bảo sự đại diện của các dân tộc thiểu số trong đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy.
Từ bảng số liệu dưới đây, ta có thể thấy rõ sự phân bố theo khu vực. Ở khu vực Đồng bằng sông Hồng, mặc dù đây là vùng có dân số đông và kinh tế phát triển, số nữ giáo viên dân tộc thiểu số chỉ đạt 2.690 người, với 1.456 người dạy bậc tiểu học, 792 người dạy trung học cơ sở và 432 người phụ trách trung học phổ thông. Ngược lại, khu vực Trung du và miền núi phía Bắc có đội ngũ nữ giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số đông đảo nhất, với 52.613 người, trong đó 31.546 người dạy tiểu học, 15.793 người dạy trung học cơ sở và 5.274 người phụ trách trung học phổ thông. Sự chênh lệch giữa hai vùng này phản ánh đặc điểm dân cư và sự tập trung của cộng đồng dân tộc thiểu số tại các vùng núi.
Khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung có 8.082 nữ giáo viên dân tộc thiểu số, với 5.001 người dạy tiểu học, 2.277 người dạy trung học cơ sở và 804 người dạy trung học phổ thông. Tại Tây Nguyên – Central Highlands, số lượng nữ giáo viên đạt 9.426 người, với 5.711 người dạy tiểu học, 2.406 người dạy trung học cơ sở và 1.309 người phụ trách trung học phổ thông. Vùng Đông Nam Bộ ghi nhận 2.465 nữ giáo viên, trong khi khu vực Đồng bằng sông Cửu Long – Mekong River Delta có 9.004 người, góp phần hoàn thiện bức tranh toàn cảnh của hệ thống giáo dục phổ thông các dân tộc thiểu số.
Dưới đây là bảng tổng hợp số liệu:
Khu vực | Tổng số | Tiểu học | Trung học cơ sở | Trung học phổ thông |
---|---|---|---|---|
Cả nước | 84.280 | 50.155 | 24.664 | 9.461 |
Đồng bằng sông Hồng | 2.690 | 1.456 | 792 | 432 |
Trung du và miền núi phía Bắc | 52.613 | 31.546 | 15.793 | 5.274 |
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung | 8.082 | 5.001 | 2.277 | 804 |
Tây Nguyên - Central Highlands | 9.426 | 5.711 | 2.406 | 1.309 |
Đông Nam Bộ - South East | 2.465 | 1.221 | 784 | 460 |
Đồng bằng sông Cửu Long - Mekong River Delta | 9.004 | 5.220 | 2.602 | 1.182 |
Số liệu này cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng miền về cơ cấu đội ngũ giáo viên thuộc các dân tộc thiểu số. Các chuyên gia nhận định rằng, trong bối cảnh hội nhập và phát triển, việc theo dõi sát sao các số liệu thống kê như trên sẽ là cơ sở để chính quyền điều chỉnh, tập trung đầu tư và cải thiện điều kiện làm việc cũng như đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Điều này không chỉ đảm bảo cơ hội học tập công bằng cho học sinh ở mọi vùng miền mà còn góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số trong nền giáo dục quốc dân.
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *
Vui lòng Đăng nhập để bình luận